Có lẽ nhiều bạn đọc đã biết nhạc tập Kinh Việt Nam của Trịnh Công Sơn, do Đinh Cường vẽ bìa, Bửu Chỉ minh họa, Nhân Bản xuất bản (1970), từng đọc đoạn Mở đầu do Trịnh Công Sơn viết từ năm 1968: “Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương. Kinh Việt Nam cũng là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu nầy. Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Ðó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh.”
Nhưng có thể nói cho đến nay ít người có thể biết được trong trường hợp nào Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhạc tập Kinh Việt Nam với lời mở đầu súc tích như thế. Đây là một sự kiện mang tính lịch sử hết sức ly kỳ trong cuộc đời nhạc sĩ thiên tài nầy.
Lúc sinh thời Trịnh Công Sơn có hé cho tôi một chút, Bửu Chỉ chỉ biết loáng thoáng muốn tìm hiểu nhưng chưa tìm được thì đã qua đời. May mắn sao, tôi vô tình được gặp lại KTS Nguyễn Hữu Đống – người cùng quê với tôi, bạn thân của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước năm 1975, ở nước ngòai về đã cho tôi biết cụ thể chi tiết sự việc nầy. Đây là một sự việc liên quan đến nhiều nhân vật, liên quan đến giai đọan đầy biến động ở Sài Gòn trước và sau tết Mậu thân (1968), rất có ý nghĩa đối với cuộc đời sáng tác âm nhạc vận động hòa bình của Trịnh Công sơn. Tôi đã gặp gỡ, thu băng các lần hỏi chuyện KTS Nguyễn Hữu Đống, thẩm tra lại những thông tin có liên quan để tăng cường tính chính xác của những hồi ức của KTS Nguyễn Hữu. Nhân báo Hồn Việt ra đời, tôi tóm tắt câu chuyện cũ ít người biết trong mấy trang sau đây.
1. Những tháng cuối năm 1967 cái tên Kinh Việt Nam hình thành ở Quán Văn Đại học Văn khoa Sài Gòn…
Từ sau khi Trịnh Công Sơn cho trình bày Ca Khúc Da Vàng qua tiếng hát Khánh Ly, đặc biệt là sau vụ chính quyền Sài Gòn đàn áp đẫm máu Phong trào tranh đấu miền Trung (6-1966), Quán Văn và Hội Họa sĩ trẻ Đại học Văn khoa Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ, sinh họat văn hóa, nơi ẩn trú của thanh niên sinh viên tranh đấu và yêu nhạc Trịnh. Đây cũng là nơi “trồn lính” của Trịnh Công Sơn. KTS Nguyễn Hữu Đống– nhân vật dân sự độc nhất có mặt trong “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11-1963, Chủ nhiệm báo Việt Chiến –kiêm Giám đốc Nhà xuất bản Việt Chiến, cũng thường đến Quán Văn chơi với Trịnh Công Sơn và qua giọng Huế đồng hương họ hay bàn chuyện sáng tác văn nghệ đấu tranh cho hòa bình Việt Nam. Nguyễn Hữu Đống làm báo, có nhiều kênh quan hệ với tính báo, biết rõ chủ trương làm chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, anh rất đau lòng trước cảnh người Việt Nam bị bắt lính, bị bắt cầm súng của ngoại bang để bắn vào đầu anh em. Tất cả những nhân danh nầy nọ đều là bịa đặt, ngu dốt.
Một đêm, trước Noel 1967, anh em văn nghệ ở Quán Văn kéo nhau đi xem phim Mười điều giáo lệnh của Moïse (Les Dix Commandements de Moïse). Đang bị lùng bắt, Trịnh Công Sơn không dám ra khỏi Quán Văn để đi xem phim. Ở Quán, Trịnh có dịp tâm sự riêng với nhà báo KTS Nguyễn. Ngồi trên cái nền xi-măng vốn là nền Khám Lớn, các bạn cứ nghĩ mình đang ngồi trên cái nền từng để cái máy chém của thực dân Pháp, hồn thiêng sông núi đang quanh quẩn đâu đây. Nhân bình luận về Mười điều giáo lệnh, tức nhắc đến các mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo, theo Kinh thánh, được phán truyền cho Moïse ở Mont Sinaï và được khắc vào hai phiến đá (Mười điều giáo lệnh đóng vai trò quan trọng trong Do Thái giáo và Kitô giáo), Nguyễn Hữu Đống nẩy ra một ý kiến mới và bảo Trịnh Công Sơn:
-“Toi đã làm được Ca Khúc Da Vàng, tại sao toi, không làm một tập Giáo Lệnh Việt Nam - Kinh Việt Nam, để cho người Việt Nam nhớ đừng bao giờ còn ngu cầm súng ngoại bang để bắn vào đầu anh em, đồng bào mình nữa ?”
Đề nghị bất ngờ nhưng hợp với tư tưởng hòa bình của Sơn nên Sơn sốt sắng nhận lời. Hôm sau Nguyễn Hữu Đống lại đến trình bày với Trịnh Công Sơn một ý tưởng mới bổ sung cho Kinh Việt Nam. Nguyễn vừa phác thảo dự án Đền Việt Nam có cái tháp cao trên 500 thước với hình tượng hai bàn tay dựng đứng chắp vào nhau, như đền Panthéon ở Paris. Giữa lòng hai bàn tay sẽ là nơi chứa tro hay hài cốt các danh nhân lịch sử Việt Nam. Trước tháp đặt cái lư đồng cao. Ngoài hết có cái bia lớn ghi 12 điều tâm niệm thề không bao giờ cầm vũ khí ngọai bang để giết hại anh em mình nữa. Mỗi lần thắp hương gió sẽ đẩy khói hương trầm len vào tháp và bốc lên trời cao. Trước tháp có hồ nước có thể đua thuyền và soi bóng tháp. Chung quanh tháp đặt 12 bức tượng và quanh năm 12 tháng, tháng nào cũng có lễ hội để thu hút tuổi trẻ đến chiêm bái. Sơn rất thích ý tưởng đó. Nhưng không may, đầu năm 1968 Sơn về Huế ăn tết Mậu thân và kẹt ở Huế. Chuyện Đền Việt Nam có cái tháp cao không còn nhắc đến nữa.
2. Làm tập nhạc phục vụ cuộc đảo chánh vận động hòa bình cho Việt Nam
Mùa hè 1966, nếu Chính quyền Sài Gòn không đàn áp được Phong trào tranh đấu cho hòa bình Việt Nam ở miền Trung, Tổng thống Mỹ Johnson có thể tính đến chuyện giao vấn đề Việt Nam cho người Việt Nam giải quyết. Sau tết Mậu thân (2-1968), Chính phủ Mỹ càng ngao ngán hơn nữa. Qua các nguồn tin mật phương Tây, Nguyễn biết được trước sau gì Mỹ cũng bỏ rơi VNCH. Vì thế càng kéo dài chiến tranh, càng có nhiều thanh niên chết một cách vô ích, đất nước càng nát tan, hận thù càng bị đào sâu. Nguyễn Hữu Đống đã có kinh nghiệm làm đảo chánh từ hồi 1963, nên sau Tết Mậu thân, nhất là sau khi có chủ trương việt nam hóa chiến tranh, anh cùng nhiều chính khách cũng như tướng tá VNCH cùng chí hướng bí mật tổ chức một cuộc đảo chánh để “cứu nước”. Được nhiều thế lực trong và ngoài nước ủng hộ, Nguyễn Hữu Đống nhờ “nhà báo” Đỗ Ngọc Yến tập họp tất cả các đòan thề thanh niên ở Sài Gòn mà yến có ảnh hưởng lúc ấy vào Đại hội thanh niên vì tổ quốc (Congrès de la Jeunesse pour la Patrie). Nguyễn Hữu Đống được bầu làm Tổng thư ký của Đại hội. Trong thời gian đó, tướng Trần Văn Đôn được Mỹ ủng hộ hình thành Mặt Trận Nhân Dân Cứu Nguy Dân Tộc. Qua trung gian “nhà báo” Đỗ Ngọc Yến, người Mỹ muốn tổ chức của Nguyễn Hữu Đống đặt dưới trướng của Trần Văn Đôn. Nhưng Nguyễn không đồng ý. Nguyễn lập kế họach đảo chánh Nguyễn Văn Thiệu, sẽ mời TS Nguyễn Văn Hảo – người miền Nam (sinh năm 1936) phụ trách Kinh tế xã hội, mời Bùi Thế Dung (sinh 1936, chồng của ca sĩ H.Th.) - đại tá Thiết Giáp, người miền Bắc, phụ trách quân sự, ngọai giao. Và Nguyễn Hữu Đống (người Huế, sinh năm 1937), phụ trách an ninh, báo chí- phát thanh. Sẽ đặt Trịnh Công Sơn làm Bộ trưởng Văn hóa. Theo kế họach, khi đảo chánh thành công, công an và quân đội VNCH sẽ được đưa ra bên ngoài, các thành phố giao lại cho thanh niên, học sinh, sinh viên giữ an ninh. Bộ Tư lịnh sẽ đặt ở Suối Lồ Ồ - nơi trước đây Ngô Đình Nhu định xây dựng bản doanh của “Thanh niên Cộng hòa”. Tuổi trẻ đô thị sẽ đốt đuốc hát Kinh Việt Nam nối đuôi nhau từ thành phố ra ngọai ô rồi đi ngược lại. Dòng người trẻ cứ thế thực hiện từ Sài Gòn ra đến Bến Hải (Quảng Trị).
Đến khi cuộc đảo chánh vận động hòa bình được ổn định, được thế giới chú ý, sẽ tuyên bố “Việt Nam Cộng Hòa bỏ súng”. Nếu có đơn vị quân đội nào không chấp hành trở ngược lại đàn áp thanh niên thì một số thanh niên có thể chết vì khát vọng hòa bình còn hơn là chết ngoài mặt trận chống lại anh em của mình. Và, chắc chắn khi đó các lực lượng ủng hộ cuộc đảo chánh (Anh, Pháp, Mỹ chủ trương hòa bình…) sẽ can thiệp và bảo vệ cuộc đảo chánh vì hòa bình Việt Nam. Tất cả những cuộc họp bàn đảo chánh kéo dài trong nhiều năm đều diễn ra bí mật nhưng luôn luôn được thông báo từng chi tiết với Trịnh Công Sơn. Đến sau khi Trịnh Công Sơn xây được nhà riêng xong (1971 ?) thì các cuộc bàn ấy diễn ra ngay tại nhà tại nhà Trịnh Công Sơn.
3. Bài “quốc ca” như một “đoàn ca’’
Quan hệ với Mỹ, Nguyễn Hữu Đống biết rõ Mỹ có hai điều bận tâm. Một là Mỹ không muốn nhắc đến các cán binh chiêu hồi. Chiêu hồi người ta về, dùng thì sợ gài gián điệp, mà giam họ thì người khác sẽ không chiêu hồi nữa. Mỹ rất khó giải quyết. Hai là, Mỹ không thích nhắc đến bài Quốc ca của VNCH trên báo chí cũng như trên các phương tiện truyền thông. Vì đó là bài Tiếng Gọi Thanh Niên của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước – tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Giải Phóng Miền Nam và cũng là Bộ trưởng Văn hóa-Thông tin-Tuyên truyền của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam VN. Tiếng Gọi Thanh Niên của ông Bộ trưởng Lưu Hữu Phước “gọi thanh niên vào rừng kháng chiến chứ không phải gọi đi với Mỹ”. Vì thế ngoài Kinh Việt Nam, Nguyễn yêu cầu Trịnh Công Sơn với tư cách là “Bộ trưởng Văn hóa” trong tương lai, làm một quốc ca mới để khi đảo chánh xong sẽ dùng. Trịnh Công Sơn nhận lời. Một hôm vào khoảng giữa năm 1970, Trịnh Công Sơn báo cho Nguyễn Hữu Đống biết đã làm xong “Quốc ca” và hát cho Đống nghe thử. Nghe xong, Đống bảo: “Rất hay, nhưng nội dung bài hát nầy mang tính giai đoạn, cho nên có thể dùng làm “đoàn ca” chứ không thể dùng làm quốc ca. Đề nghị Sơn làm cho bài khác.” Sơn mất hứng, tự ái và từ đó Sơn không quan tâm làm “quốc ca” nữa. Về sau, Trịnh Công Sơn đặt tên cho bài hát đó là Hành Ca. Bài hát rất ấn tượng, Nguyễn Hữu Đống không có khiếu âm nhạc nhưng mới nghe lần đầu anh đã thuộc được mấy câu và còn nhớ đến bây giờ. “Đoàn người đi vào trong đêm/Cầm ánh sáng tin trong tay mình/Cầm bao la đi khắp phố phường khắp nẻo đường/Đoàn người đi muôn chân/Ầm lớp sóng dân da vàng/Trường sơn đi/Từng dẫy núi cao đi theo mình/Đại dương đi/Từng lớp sóng cuốn theo chân mình.”....
4. Chờ các cuộc đảo chánh Trịnh Công Sơn rất sốt ruột
Trịnh Công Sơn đã sọan xong Kinh Việt Nam. Nhưng kế hoạch đảo chánh được chuẩn bị từ năm 1968, nhiều lần tưởng đã sắp nổ súng lại phải hủy bỏ. Tướng Nguyễn Văn Thiệu biết đang có một cuộc đảo chánh đang rập rình quanh mình nên rất cảnh giác. Phương tiện, giờ giấc đi lại của tướng Thiệu luôn thay đổi bất ngờ. Những người phục vụ chung quanh có dấu hiệu bất thường ông liền điều động đi nơi khác ngay. Trong các cuộc duyệt minh mừng “Ngày Quân Lực 19 tháng 6”, hay mít-tin kỷ niệm ngày “Người Cày Có Ruộng”, tướng Thiệu luôn cho kiểm tra nghiêm ngặt súng đạn và xăng dầu của các Thiết giáp để đề phòng chuyện quân đội làm đảo chánh. Nhờ thế mà Nguyễn Văn Thiệu đã vô hiệu hóa nhiều âm mưu ám sát ông. Kế họach đảo chánh chờ đợi thực hiện tháng nầy qua tháng khác, làm cho Trịnh Công Sơn rất sốt ruột. Chưa đảo chánh được chính quyền sống bằng chiến tranh thì Trịnh Công Sơn (Hạ sĩ quan Không quân đào ngũ) còn phải sống “bất hợp pháp”. Trịnh Công Sơn khao khát được tự do, anh diễn tả nổi chờ mong ấy trong bài Chờ Nhìn Quê Hương sáng Chói :“Nơi đây tôi chờ/Nơi kia anh chờ /Trong căn nhà nhỏ/Mẹ cũng ngồi chờ/Anh lính ngồi chờ/Trên đồi hoang vu/Người tù ngồi chờ/Bóng tối mịt mù/Chờ đã bao năm (3 lần)/Chờ mai này ta dậy trong tiếng hò reo/Chờ cho lòng căm thù đến lúc chìm sâu/Chờ hoà bình đến/Chờ tiếng bom im…” Không ngờ, Trịnh Công Sơn phải chờ đến 30-4-1975 mới thất được đất nước hòa bình thống nhất.
5. Kinh Việt Nam cầu những việc gì?
Kinh Việt Nam có 12 bài. Ngoài bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói đã trích ở trên, 11 bài còn lại phục vụ cho cuộc đảo chánh vận động hòa bình với các nội dung sau:
- Trước nhất anh mô tả cảnh dân tộc đắm chìm trong chiến tranh, dân ta sống rất đau khổ, bi đát.
Dân Ta Vẫn Sống: “Dân ta đã bao nhiêu năm/Lòng chìm sâu ước mơ hân hoan/Nhìn rừng phơi xác thân anh em/ Nhìn trái tim rơi theo đại bác/Thịt người cho thú nhai ngon/Mẹ cha tóc khô như rơm/Chờ đàn con đã đi bao năm không về/Đứa về cụt bàn chân…”
- Anh tin tưởng cuộc đảo chánh sẽ thành công và …
Ngày mai đây bình yên : “Ngày mai đây bình yên/Vì mọi nơi đă lên mồ hoang/Ngày mai đây nhìn quanh/Lòng sẽ thấy xót xa vô cùngMẹ già đi lom khom tìm trên bãi vắng/Tìm mộ đứa con hôm nay không còn/Để đón thanh bình”.
- Anh tưởng tượng đến nỗi hân hoan trong đêm đảo chánh vận động hòa bình.
Ta Thấy Gì Đêm Nay: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay/Rừng núi loan tin đến mọi miền/Gió Hoà bình bay về muôn hướng/Ngày vui con nước trôi nhanh/Nhịp sống bao la xoá bỏ hận thù/Gặp quê hương sau bão tố
Giọt nước mắt vui hay lòng gỗ đá”
- Những đêm ấy thanh niên thắp đuốc đi từ thành phố ra vùng nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi kêu gọi hòa bình.
Hành Ca: “Đoàn người đi vào trong đêm/Buổi bóng tối đi cho da vàng/Bỏ hai mươi năm chiến chinh buồn xây thanh bình/Đoàn người đi miên man/ Tìm ánh sáng cho Việt Nam”
-Khi đã có hòa bình, thống nhất, nỗi mừng vui hạnh phúc tràn ngập ruộng đồng quê hương.
Cánh Đồng Hòa Bình: “Mặt trời yên vui lên đỏ chói /Đỏ trái tim người/ Ngày Việt Nam đã qua cơn đau dài/ Triệu trái tim người/Cùng nhịp vui với con tim nhân loại/Ngày lên cùng niềm tin/Bàn tay ta quyết lo vun trồng/Hoà bình như lúa thơm nuôi dân mình/Một sớm thanh bình /Giọng cười em vút cao hơn bình minh”….
-Khung cảnh miền quê sau ngày đất nước hòa bình:
Đồng Dao Hòa Bình “Hôm nay thấy mặt trời rực sáng/Trong tim người trong tim ta trong tim anh/ Trong tim những ruộng đồng gội nắng/Hai mươi năm nhục nhằn đã qua/Hôm nay thấy nụ cười rạng chói/ Trên môi người trên môi ta trên môi em/Trên môi những mẹ già”….
- Tuy nhiên, trong nỗi mừng hòa bình bộc lộ nỗi đau đớn mất mát:
Sao Mắt mẹ Chưa Vui “Đêm nay hòa bình sao em nhỏ chưa vui /Hãy bước ra đây nhìn phố ngập người/ Ðêm nay hòa bình không nụ cười trên môi/Nhìn quanh em không ai còn lại/Không ai còn lại/Ru đỡ tình người cho có đôi”....
- Anh kêu gọi hãy nén thương đau để hân hoan đón hòa bình, xây dựng lại tình thương, hàn gắn vết thương đau:
Đôi Mắt Nào Mở Ra “Nhìn Việt Nam sống lại ngày đầu/Đôi mắt nào mở ra cho nhau/Nhìn hồn phai những vết thương đau/Đôi mắt nào mở ra trông theo/Từng niềm vui mặt người thấy lại/Đôi mắt nào mở ra hôm nay/Nhìn rừng khô lên những mầm tươi”
- Phải hành động cụ thể, không viễn vông:
Hãy Đi Cùng Nhau : “Đến trước từng căn nhà/Hỏi thăm từng anh lính /Mới về từ rừng xa/Em hãy đi cùng tôi/Đến trước từng căn nhà /Hỏi thăm từng người mẹ/Hỏi thăm từng người cha/Em nhớ đi cùng tôi/Áo mới và mang quà/Đùa vui cùng đàn bé/Tay cầm lồng đèn hoa/Em hãy đi cùng tôi
Dưới bóng triệu lá cờ/Hỏi thăm từng người chị/Phố dài triệu người qua”
- Cả dân tộc đoàn kết, hân hoan đất nước hòa bình, thống nhất, cùng nhau nắm tay xây dựng đất nước vinh quang.
Nối Vòng Tay Lớn : “Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà/Mặt đất bao la anh em ta về/Gặp nhau mừng như bão cát/Quay cuồng trời rộng bàn tay ta nắm/Nối tròn một vòng Việt Nam”…
- Kêu gọi xây dựng lại đất nước sau khi hòa bình;
Dựng Lại Người, Dựng Lại Nhà “Đi xây lại Việt Nam/Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng ao/Vác những cây rừng to/Về nơi đây ta xây dựng nhà/Dựng làng mới cho dân ta về/Dựng nhà mới cho miền quê”
*
* *
Kinh Việt Nam được viết với sự gợi ý (cũng có thể xem là sur commande=đặt hàng) của những người chuẩn bị đảo chính vận động hòa bình. Tuy nhiên việc gợi ý đó phù hợp với khát vọng hòa bình của Trịnh Công Sơn nên anh hưởng ứng và thực hiện rất thành công. Bởi thế chính quyền VNCH sống bằng chiến tranh cũng như những người gắn bó với chính quyền ấy hiện nay đang định cư ở nước ngoài ít nhắc hoặc không muốn nhắc đến Kinh Việt Nam.
Qua Kinh Việt Nam ta thấy Trịnh Công Sơn rất thực tế, các bài hát được sọan đúng theo trình tự trước, trong và sau cuộc đảo chính vận động hòa bình, nếu có. Âm điệu Kinh Việt Nam mạnh mẽ vui tươi trong sáng, không day dứt sâu lắng như Ca Khúc Da Vàng; nhưng nó vẫn gắn kết với đời sống tâm linh vốn có trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Kế họach đảo chánh để vận động hòa bình của nhóm KTS Nguyễn Hữu Đống không thực hiện được và nó chỉ còn là một kỷ niệm trong ký ức của những người trong cuộc. Không ngờ nhân gợi ý của những người còn có kỷ niệm ấy đã tác động người nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn sọan được một tập nhạc Kinh Việt Nam thể hiện hồn Việt khát vọng hòa bình rất sáng giá. Tư tưởng hòa bình của Trịnh Công Sơn trong Kinh Việt Nam cũng như trong toàn bộ tác phẩm của anh không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả loài người, không chỉ có ý nghĩa trong thời gian xảy ra chiến tranh Việt Mỹ mà còn có giá trị trong thế giới đầy bạo lực ngày nay.
Nếu không biết Trịnh Công Sơn đã từng khát khao hòa bình và muốn hành động để thống nhất đất nước như thế thì không thể giải thích được sự hồ hỡi phấn khởi của Trịnh Công Sơn khi anh đến Đài phát thanh Sài Gòn hát Nối Vòng Tay Lớn vào trưa ngày 30-4-1075 như lịch sử thường nhắc đến.
Và cũng không thể hiểu được sau 30-4-1975, Trịnh Công Sơn đã đi vào thực tế cách mạng một cách say sưa và làm “nhạc đỏ” vẫn rất hay. Chỉ tiếc nhiều dự kiến của Trịnh Công Sơn sau 30-4-1975 không thực hiện được, nhiều bài trong Kinh Việt Nam không được “tụng”. Ngày nay, yêu thích Kinh Việt Nam, không những hát Kinh Việt Nam mà nên chăng phải hành động, tiếp tục thực hiện những gì chưa thực hiện sau hơn ba mươi năm đất nước đã hòa bình thống nhất.
Bài viết nầy chỉ là một khám phá ban đầu, rất mong những ai đã từng ở trong cuộc đang sinh sống ở trong nước cũng như ở nước ngòai bổ sung cho những chỗ bất cập. Đa tạ.
Gác Thọ Lộc, 6-2007
Nguyễn Đắc Xuân
[Nguồn Báo Hồn Việt]