Nền kiến trúc dân tộc của ta trải qua hàng chục thế kỷ phát triển, thăng trầm, có được và mất đi cũng nhiều, để lại một di sản không lấy gì làm phong phú lắm. Thời Lý, thời Trần, với nền văn hóa Thăng Long đầy sức mạnh khai phá và tinh thần dân tộc, để lại vẻn vẹn rải rác đó đây những nền, những mảng của các công trình kiến trúc đã tan thành tro bụi, khó mà khôi phục lại được, dù chỉ là trên giấy. Thời hậu Lê kéo dài ròng rã bốn thế kỷ, cũng chỉ để lại rất ít di tích: thành lũy, đền đài hầu như tan biến hết. May mắn thay, xóm làng quê ta còn ôm ấp nhiều đình, chùa, đền, miếu của thời đại bi tráng ấy. Thời Nguyễn cũng lùi vào dĩ vãng. Di sản kiến trúc không nhiều ngay ở đất Hà Nội, những di tích tiêu biểu cho thời kỳ ấy cũng dễ dàng đếm được.
Duy chỉ trên đất Huế, kinh đô cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, mặc dù đã bị mất mát nặng nề vẫn còn lại một di sản kiến trúc thật sự, phong phú về số lượng, về loại hình cũng như về chất lượng nghệ thuật.
Công cuộc nghiên cứu kiến trúc và mỹ thuật Huế chỉ mới bắt đầu. Dư luận rộng rãi thán phục những cái đẹp, cái riêng, cái mới của nghệ thuật Huế. Song lác đác vẫn còn những ý kiến phủ định hoặc hạ thấp giá trị của nó. Những ý kiến chê bai kiểu đó làm cho di sản kiến trúc dân tộcphair chịu thêm những thiệt thòi chua chát, có thể đang phần nào cản trở những nổ lực nhằm giữ gìn di tích Huế.
Trong bài viết này, tôi chỉ thử nêu lên, rất sơ bộ, một số giá trị nổi bật của di sản kiến trúc Huế.
1-Di sản kiến trúc Huế là một tập hợp có một không hai trong những công trình kiến trúc điển hình của một thời kỳ lịch sử, gồm thành lũy, cung điện, đền miếu, lăng tẩm, chùa chiền, nhà ở, phố phường... Muốn nghiên cứu, hiểu biết tường tận những loại hình kiến trúc của thời phong kiến Việt Nam, chỉ có thể thông qua di sản kiến trúc Huế.
Hệ thống thành lũy của kinh đô Huế với ba lớp thành ( lớp ngoài có mặt hình vuông, 2200 x 2200m, thành đất ốp tường gạch phía ngoài và trong), với những đường hào, con kênh, hàng chục cổng và môn lâu, hàng chục chiếc cầu vòm cuốn xây bằng gạch và đá, là duy nhất còn nguyên vẹn trong di sản kiến trúc dân tộc. Đáng tiếc vẫn có người cho rằng thành Huế xây theo kiểu Vauban. Thực ra, bố cục mặt bằng và kiến trúc thành này về cơ bản theo quy cách thành lũy Á Đông, thành lũy Việt Nam truyền thống ( gồm 3 lớp thành: phòng thành, hoàng thành và cấm thành), duy chỉ lớp ngoài ( phòng thành và mang cá) có cấu tạo phòng thủ kiểu Vauban.
Thành phần và các tên gọi của của các công trình kiến trúc nằm trong Hoàng thành ( ở Huế người ta gọi là Đại Nội) như điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Thái Miếu, Thế Miếu, Thái bình lâu.vv.. tuy có vay mượn từ kiến trúc cung đình Trung Hoa, song có nhiều nét riêng biệt về bố cục ( ở Huế, các ngôi điện đặt gần như ở giữa sân, còn ở Bắc Kinh, các ngôi điện đặt trên trục tường ngăn cách các sân) cũng như về kiểu cách kiến trúc, về qui mô,tỉ xích... Có người vội vàng kết luận rằng Ngọ Môn ở Huế vay mượn kiểu cổng thành ở Bắc Kinh. Song chỉ cần so sánh trên ảnh, chưa kể đến trường hợp may mắn được quan sát cả hai trên thực tế, ta cũng đã dễ dàng nhận ra Ngọ Môn của Huế đặc sắc biết nhường nào. Có thời, kéo dài nhiều thế kỷ, ở khắp các nước Châu Âu, người ta xây dựng các thánh đường kiến thức Gô tích ấy thế mà cuối cùng vẫn nhận ra Gô tích Italia Pháp, Gô tích Đức, Gô tích Anh... trên những quy cách kiến trúc cơ bản đã tìm được, các dân tộc đã thể hiện những cái riêng, cái duy nhất của mình.
Điện Thái Hòa, điện Long An ( nay dùng làm bảo tàng cổ vật) là những kiến trúc cung điện không còn thấy ở một nơi nào nữa ở nước ta. Đó là hai ngôi nhà gỗ to nhất trong di sản kiến trúc dân tộc, được cấu tạo thanh thoát, nhẹ nhõm đến kinh ngạc, còn lưu lại được sự nguy nga của cung vua, phủ chúa thời đã qua.
Quốc tử giám với nhà Di Luân đường, Duyệt Thị đường và Minh khiêm đường_ nơi vua xem hát, Thái bình lâu_ nơi nhà vua đọc sách, làm thơ, cung Diên thọ_ nơi ở của Thái hậu, Phu văn lâu_ nơi đọc chỉ sắc của nhà vua, Hổ quyền_ vũ đài, nơi nhà vua xem đấu voi và hổ... đều là những loại hình kiến trúc phong kiến chỉ còn có thể thấy ở Huế.
2- Huế là một kiến trúc đô thị còn lại hầu như nguyên vẹn ở nước ta. Hà Nội với ngót nghìn năm lịch sử chỉ còn lưu lại được vài di tích kiến trúc tôn giáo của các thời đại trước, các dãy phố thì mang một ít dấu ấn của thế kỷ trước. Thành phố Hà Nội chỉ còn soyts cửa Bắc và Cột cờ. Cố đô Huế xây dựng những năm đầu thế kỷ 19 vẫn hiện diện rõ rệt với những nhân tố cấu thành của một kinh thành, gồm các lớp thành lũy, các cung điện, đền đài, các công sở, các ô phố của các quan chức cư trú, các dãy phố buôn bán và làm nghề thủ công, , các chợ, các cửa ô, các làng xóm nằm giữa kinh thành và ở thôn quê. Hơn nữa, Huế có một giá trị kiệt xuất của chốn đô thị lâu đời_ đó là sự hòa nhập, chuyển tiếp tự nhiên phần hạt nhân cổ, phần xây dựng cuối thế kỷ vừa qua. Một giá trị nữa của thành phố Huế là sự chuyển tiếp hết sức nhuần nhuyễn giữa ba thành phần: bản thân đô thị khu vực trung gian gồm những thảm cây cỏ triền sông, sông nước có sự đầu tư của bàn tay con người qua nhiều thế kỷ_ khung cảnh thiên nhiên. Trèo lên núi Ngự Bình, nhìn ngắm Huế, choáng ngợp trước một chốn đô thị do con người tạo ra, là sản phẩm của sự chuyển tiếp và hòa nhập của không gian và thời gian ta bỗng nhận thấy rằng chốn đô thị này là sự bổ sung duy nhất thích hợp vào khung cảnh thiên nhiên này.
Cho đến nay, đến Huế và sống ở Huế, ta vẫn còn được hưởng thụ cái cảm giác hiếm hoi, không dễ có được ở các đô thị khác. Con người là chủ cái cơ thể đô thị lớn lao mà đời này kế tiếp đời nọ tạo sựng nên là chuẩn gốc của những qui mô, những chiều dài và độ cao. Đó lại là một giá trị nữa của Huế_ di tích kiến trúc đô thị_ thành phố bảo tàng.
3- Nối tiếp giai đoạn Phú Xuân và qua một thế kỷ rưỡi tồn tại với tư cách là kinh đô, ở Huế đã hình thành một kiến trúc có bản sắc riêng không thể lẫn với kiến trúc của một nơi, một thời nào khác. Có thể nêu ra đây mấy đặc điểm chính:
_ Bố cục mặt bằng ngôi nhà theo kiểu trùng thiềm điệp ốc ( để tăng chiều rộng, sâu của ngôi nhà, hai dãy nhà trước, sau được ghép vào nhau có máng hứng nước mưa được đỡ ở dưới bằng kết cấu còn gọi là vỏ cua, dãy nhà trước chiều sâu hẹp hơn dãy nhà sau, dãy trước lát gạch và khong trần, dãy sau có sàn gỗ và trần gỗ).
_ Các ngôi nhà thường có tám mái cấu tạo theo kiểu cổ diêm khác với đình chùa ngoài Bắc, ở Huế các góc mái thẳng, một phần nào gây được cảm giác uốn cong là do thành phần bộ mái và trang trí đắp.
_ Các hệ kết cấu gỗ hoàn toàn khác biệt các hệ sử dụng ở ngoài Bắc trước đó và cùng thời. Nổi bật nhất là kiểu vì giả thủ và kiểu vì kết hợp hai chức năng chịu lực và trang trí. Những bộ vì sử dụng trong các nhà ở, nhà thờ họ và miếu đình vùng ven Huế, trong Triệu miếu, điện Long An, Hưng miếu, trong các dãy hành lang ở các lăng... là những biểu hiện đặc sắc của kỹ thuật xây cất bằng gỗ, nơi cái chắc, cái nhẹ, cái đẹp, tính tiết kiệm cân đối tới mức tự nhiên. Ở các ngôi nhà quanh Huế và tại Huế, đôi khi bắt gặp những bộ vì, những bẩy góc được chế tác tinh xảo đến mức tưởng chừng gọt đẻo từ ngà xương.
Phải nói thêm là quá trình phát triển của nền kiến trúc Huế có thể chia thành hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất từ đầu thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 19, dưới các thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức nề kiến trúc Huế là một bước phát triển lành mạnh và đậm nét của nền kiến trúc dân tộc. Tiêu biểu cho thời kỳ này là kiến trúc Ngọ Môn với lầu Ngũ Phụng, Thế Miếu và Hiển Lâm các, điện Thái Hòa và điện Long An, lăng Minh Mạng và lằn Tự Đức.
Thời kỳ thứ hai từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1915, kiến trúc Huế cũng như toàn bộ nền kiến trúc Việt Nam tiếp nhận và tiêu hóa những truyền thống và thành tựu mới của kiến trúc Châu Âu, bức tranh phát triển kiến trúc thời kỳ này có nhiều mâu thuẫn, có những biểu hiện suy thoái, song cũng có thể nhận ra những tìm tòi khá thành công để làm móng cho nền kiến trúc mới. Công trình lăng Khải Định được xây dựng trong những năm 20, mang dấu ấn của thời kỳ đó và ngược lại với dư luận khá phổ biến chê bai nó, cần được nhìn nhận như một thành công trong sự tìm tòi để kết hợp các truyền thống kiến trúc Đông_ Tây, thành công kỳ diệu của những người thợ nề_ ngõa, đặc biệt là thợ ghép sành sứ và thủy tinh.
4- Các công trình kiến trúc ở Huế được bì trí trong phủ và cầu kỳ. Các kỹ thuật chạm trổ, sơn son thếp vàng, khảm xà cừ, ghép sứ, đắp ngõa, pháp lam... đạt trình độ hoàn mỹ. Các đề tài trang trí tuy phần lớn có xuất xứ Trung Hoa, song đã được Việt Nam hóa và có cách thể hiện rất Huế. Ở Minh thành điện, lăng Gia Long, ta có thể thưởng thức những bức chạm với đường nét cao siêu, tinh tế. Kỹ thuật khảm trai, khảm ốc trên các ván nòng ở điện Long An, trong nội thất các nhà cổ ở ngoại ô Huế, trên các tủ, sập hoặc những bức trang trí ghép mảnh sứ ở cổng Quảng Đức, ở trên các mái điện Sùng Ân, điện Hòa Khiêm, ở lăng Khải Định... là những phần không thể tách rời ra được của những kiến trúc Huế thật sự đẹp đẽ.
Khác các kiến trúc ở ngoài Bắc, kiến trúc ở Huế sử dụng nhiều màu sắc.
Nhờ được trang trí bằng các kỹ thuật nêu trên, các công trình kiến trúc ở đây, cùng với cảnh quan thiên nhiên vốn dĩ nên thơ, tạo nên những bức tranh duyên dáng, sinh động, gieo vào lòng ta những cảm xúc đặc biệt mà ta chỉ có được khi đến với Huế. Nghĩ về nghệ thuật trang trí kiến trúc Huế, liên hệ với thơ ca, âm nhạc, lời ăn tiếng nói, lối ăn mặc, lối giao tiếp... có thể đi tới một nhận định không thể thiếu cơ sở là ở đây đã hình thành những truyền thống văn hóa đặc sắc trong một thời gian không dài, trong mọt không gian hẹp. Đó là một hiện tượng khá hiếm hoi trong lịch sử văn hóa.
5- Một trong những thành tựu nổi bật nhất của kiến trúc Huế là sự kết hợp hữu cơ giữa công trình và môi trường thiên nhiên. Các công trình kiến trúc, dù là cung điện, đền miếu, lăng tẩm, đình chùa, nhà ở, đều được cấy, được đặt, bổ sung vào khung cảnh thiên nhiên, với những cách giải quyết rất riêng, rất nhuần nhuyễn, như cách bố cục chuyển tiếp không gian( không gian kín, không gian mở một phần, không gian có giới hạn, không gian mở rộng vào thiên nhiên). Cách chọn tỷ xích, cách chọn bài trí, phân bố màu sắc, cách tạo cảnh... cũng quán triệt ý đồ kiến trúc đó.
Về mặt này, cần phải nói là các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức là những tác phẩm kiệt xuất của nền kiến trúc tạo cảnh Việt Nam, trong đó có thể nhận ra được sự kế thừa những truyền thống kiến trúc tạo cảnh Á Đông. Đồng thời nổi bật trên hết là nghệ thuật xử lý môi trường thiên nhiên, tạo lập ra những không gian kiến trúc thiên nhiên duy nhất thích hợp, chỉ có thể thấy được ở Huế. Sự gắn bó khắng khít với khung cảnh chung quanh là một trong những giá trị của nền kiến trúc dân tộc. Với kiến trúc Huế, giá trị này được nâng lên rõ rệt.
Bàn về di sản kiến trúc Huế, không thể không nhắc đến làng xóm ven nội và vùng thôn quê lân cận, với những nhà vườn, những ngôi đìnhcos nhiều khác biệt so với ngoài Bắc, với những kiểu nhà một gian hai chái, nhà thờ họ được trang trí rất công phu, và những đặc điểm cấu tạo cư dân thôn quê rất đặc trưng.
Chăm lo bảo vệ cho đời nay và mai sau di sản kiến trúc và nghệ thuật Huế, ta cần chủ trương gìn giữ nguyên vẹn những di tích tiêu biểu trong tập hợp các loại hình kiến trúc tiêu biểu, trong những tổng thể không gian đô thị và thiên nhiên của chúng, trong cơ thể thống nhất của thành phố Huế_ thành phố bảo tàng.
(trích Tổ quốc số 12-1987)
Chú thích ảnh: KTS Hoàng Đạo Kính.