Trồng cây gây rừng nhìn từ rừng thông Nam Giao

(Huehoc.com) Chưa thấy đất nước nào có cái Tết hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân văn như ở Việt Nam. Tết đến đồng nghĩa với Xuân về, gắn với một mùa lễ hội đặc sắc. Ngoài các lễ hội truyền thống diễn ra khắp mọi miền đất nước còn có những ngày hội ra quân trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt có Tết trồng cây do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động với lời hiệu triệu: “Mùa xuân là tết trồng cây/ Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Lời kêu gọi của Người được nhân dân cả nước đồng lòng hưởng ứng. Tết trồng cây ngày càng phát triển, tạo nên một nét đẹp truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Nhưng để Tết trồng cây như thế nào cho hiệu quả xin nhớ lại chuyện trồng cây ở đàn Nam Giao ở Huế thời các vua nhà Nguyễn.
Khi vừa lên ngôi vua Gia Long lập tức cho lập đàn Nam Giao ở làng An Ninh, phía tây kinh thành, để làm lễ tế trời hàng năm. 5 năm sau (1806) ông lại cho xây dựng đàn khác ở cuộc đất đẹp hơn trên vùng gò đồi phía nam kinh thành. Đó là đàn Nam Giao đã tồn tại ở đất thần kinh hơn 200 năm. Đàn xây lộ thiên gồm 3 tầng chồng lên nhau. Mỗi tầng có một hình dạng, màu sắc riêng. Tầng trên hình tròn (Viên Đàn), lan can xung quanh sơn màu xanh, tượng trưng cho trời. Tầng giữa hình vuông (Phương Đàn), lan can sơn màu vàng, tượng trưng cho đất. Tầng dưới cũng hình vuông, tượng trưng cho người nên lan can xung quanh được sơn màu đỏ. Khuôn viên đàn Nam Giao hình chữ nhật, chiều dài 390m, chiều rộng 265m, xung quanh có tường thành bao bọc và bát ngát một màu xanh của thông.

Địa hình đặc trưng của vùng phía nam và tây nam kinh thành Huế là gò đồi và khe suối. Ngay từ thuở mới vào định đô ở Kim Long, Phú Xuân các chúa Nguyễn đã chọn khu vực này làm âm phần. Các vị cao tăng, kể cả các vị thiền sư từ Trung Quốc qua truyền pháp cũng chọn vùng gò đồi Dương Xuân cắm tích tượng, dựng thảo am, xây dựng chùa chiền tôn nghiêm. Mỗi khu lăng mộ, mỗi danh lam cổ tự thổn thức trong gió thông reo và suối hát. Thông mọc thành rừng. Bên trái đàn Nam Giao “Ngự Bình thông lại xanh cây”. Bên phải “Tứ bề núi phủ mây phong/ Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Phía trước bắt gặp “Chí ta như núi Thiên Thai ấy/ Đỏ rực chiều nay những bóng thông”. Đó là trùng trùng điệp điệp rừng thông Thiên An, Tam Thai; rừng thông phủ kín cả ba ngọn Thiên Thai và năm ngọn Ngũ Phong. Thông phủ xanh từ lăng vua Khải Định ở Châu Ê lên đến Thiên Thọ Sơn ôm ấp lăng mộ vua Gia Long, hình thành nên một lá phổi xanh khổng lồ che chở cho cả thành phố Huế.
Dáng núi, thế sông, rừng thông cổ thụ cùng với các công trình kiến trúc lăng mộ, chùa tháp đã làm cho vùng đất này trở nên linh thiêng trong đời sống tinh thần của người dân. Có những rừng thông giàu ý nghĩa nhân văn, đem lại niềm tự hào cho mỗi gia đình dòng họ. Đó là rừng thông ở trong khuôn viên đàn Nam Giao ngày trước. Rừng thông được trồng theo ý chỉ của vua Minh Mạng và được các vị vua kế thế tiếp tục duy trì, trở thành một lệ tục, một tập quán tốt đẹp. Rừng thông này tượng trưng cho nhà vua và triều đại. Mỗi cây thông tượng trưng cho một vị Hoàng thân, một vị đại thần có liên quan đến sự hưng thịnh của vương triều. Theo một bài viết của ông Nguyễn Đình Hoè, lúc đó là Hiệu phó trường Hậu bổ dưới triều Duy Tân, vua Minh Mạng tự tay trồng 10 cây ở Trai Cung (nơi vua nghỉ ngơi, trai giới cho thanh tịnh trước khi đăng đàn tế lễ), vua Thiệu Trị trồng 11 cây. Các vị Hoàng thân mỗi người trồng 1 cây. Các quan văn trong triều, quan Phủ doãn (tỉnh trưởng) Thừa Thiên, quan võ hàm Nhị phẩm đều trồng mỗi người một cây. Thời Tự Đức mở rộng đối tượng, quan văn hàm Tứ phẩm, quan võ hàm Tam phẩm được trồng mỗi người một cây. Trước năm 1885, các mệnh quan triều đình được thăng chức, sau khi đến bái mạng nhậm chức đều phải lên Nam Giao tự tay trồng cây thông phần của mình trước sự chứng kiến của đại diện Bộ Lễ, Bộ Công và uỷ nhiệm cho người khác bảo vệ, chăm sóc. Nếu không may cây bị chết thì phải trồng lại cây khác thay thế.

Linh mục L.Cadière xác nhận thông tin trong bài viết của ông Nguyễn Đình Hoè và bổ sung chi tiết hơn trong một bài đăng trên tạp chí “Những người bạn cố đô Huế” – tập 1, năm 1914. L.Cadière viết:
“Khi đọc sử Minh Mạng, tôi có bắt gặp một đoạn người ta nói đến cách trồng thông theo tục lễ ở Nam Giao”.
“Năm Giáp Ngọ, niên hiệu 15 Minh Mạng, vào mùa xuân tháng hai... ngày Đinh Vị (21-3-1835) người ta tế lễ trời đất ở đàn Nam Giao”.
“Trước đó một ngày, vua đến Trai Cung và trồng cây vào bên trái bên phải của lầu 10 cây thông rồi tự tay buộc các biển đồng, mỗi biển có ghi các dòng chữ của vua, để ghi nhớ chức vị của người trồng”.
“Sau đó, các vị quan của kinh đô cấp Tứ phẩm trở lên và các quan ở các tỉnh về để chuẩn bị tế lễ đều được ưu tiên trồng cây và có ghi trên biển tên tuổi họ hàng của mình và ngày tháng năm đã trồng cây”.
Mỗi cây được buộc một cái thể bằng đồng, hoặc bằng đá, khắc tên và chức vụ của người trồng và thời điểm trồng. Kể cả cây do nhà vua đích thân trồng cũng được đeo thẻ. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An cho tôi xem hai chiếc thẻ mà tình cờ ông sưu tập được. Thẻ thứ nhất chất liệu bằng đồng, chiều dài 15,2 cm, chiều rộng 8,2cm, dày 0,8cm. Mặt trước khắc tên người trồng, với dòng chữ Hán: Kinh cơ thuỷ sư Hữu doanh nhất vệ Chưởng vệ Nguyễn Doãn thực. Có nghĩa là chiếc biển này đã treo ở cây thông do quan Chưởng vệ của vệ thứ nhất thuộc Hữu doanh của thuỷ quân tại kinh đô có tên là Nguyễn Doãn trồng ở đàn Nam Giao. Mặt sau khắc ghi thời điểm trồng là Thiệu Trị lục niên Bính Ngọ (năm Thiệu Trị thứ 6 – năm Bính Ngọ 1846). Dưới triều Nguyễn quan Chưởng vệ được phong hàm chánh nhị phẩm, thông tin trong chiếc thẻ này khớp với thông tin trong bài viết của ông Nguyễn Đình Hoè. Chiếc thẻ thứ hai làm bằng đá, chỉ còn lại 3 mảnh vỡ thuộc phần trên, ghép lại thì đọc được các thông tin như sau: Một mặt có hai chữ Ngự minh (lời thơ của vua). Tiếp theo đó có lẽ là hai câu thơ của một vị vua Nguyễn nào đó liên quan đến tập tục trồng cây (?). Một mặt khắc ghi thời điểm trồng cây là Hàm Nghi nguyên niên (1885) và hai chữ cung thuyên (kính khắc). Chiều ngang của chiếc biển này bằng chiều ngang của chiếc biển bằng đồng (8,2cm), chiều dày 1,5cm, chiều dài khỗng rõ nhưng có lẽ cũng sẽ bằng chiều dài của chiếc thẻ bằng đồng (15,2cm), chiều dày có dày hơn là do làm bằng đá. Nghe nói trong Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế cũng có một vài chiếc thẻ như thế này.



Những chiếc thẻ này là “phép màu” bảo vệ cho cây an toàn tuyệt đối và giúp cây phát triển tươi tốt. Bởi vì các vị đại quan ai cũng muốn tên tuổi của mình gắn chặt với nơi thiêng liêng, với cây thông lịch sử và linh thiêng. Càng không có ai muốn mỗi lần lên tế Giao thấy bảng tên của mình bị treo trên một cành cây thấp nhỏ, khô héo, thiếu sức sống.
Việc các Hoàng thân và quan chức cao cấp của triều đình được trồng thông ở đàn Nam Giao là một vinh dự lớn cho bản thân và cho cả dòng họ. Vì đây là một tập tục có tính lịch sử và thiêng liêng. Với ý tưởng này của các vua nhà Nguyễn, thông đã nhanh chóng phủ xanh, phủ kín từ Phương Đàn rộng ra ngoài khuôn viên của đàn Nam Giao.
*
* *
Cách đây hơn 2000 năm, một nhà hiền triết phương Đông dạy các học trò của mình rằng: Thập niên chi kế bất nhi thọ mộc/ Bách niên chi kế bách nhi thọ nhân. Lợi ích của việc trồng cây được so sánh với lợi ích trồng người, đào tạo nhân lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người biết trân trọng và khai thác mọi tinh hoa tư tưởng, tri thức của nhân loại. Từ ý tưởng hay của người xưa, Người chủ trương phát động Tết trồng cây với lời kêu gọi Mùa xuân là Tết trồng cây/ Làm cho đất nước càng ngày càng xuân. Lợi ích của việc trồng cây và trồng người người được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn nôm rất mộc mạc để ai cũng có thể hiểu: Vì lợi ích mười năm trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm trồng người.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào Tết trồng cây đã lan rộng khắp cả nước. Thế nhưng, ở rất nhiều địa phương Tết trồng cây đang còn là một căn bệnh thành tích, bệnh phong trào, mang tính hình thức. Trồng thì nhiều mà cây sống thì ít. Nhiều vị lãnh đạo ở các địa phương có tham gia trồng nhưng không biết bảo vệ cây trồng. Ngày hội ra quân trống dong cờ mở, có cả báo chí, truyền hình cổ vũ rầm rộ, nhưng tỷ lệ cây sống được bao nhiêu thì ít ai quan tâm tổng kết, đánh giá. ấy là do có trồng mà không có dưỡng; có trồng nhưng không có giải pháp bảo quản chăm sóc. Chuyện chỉ đạo trồng cây ở đàn Nam Giao của các vua Nguyễn là một bài học hay trong công tác chỉ đạo phong trào trồng cây gây rừng.
Thanh Tùng

Ý kiến phát triển: Trồng cây đàn Nam Giao là một việc làm đẹp, vinh dự, cao quý của Kinh đô Huế. Ngày nay Kinh đô đã trở thành Cố đô, nhưng đàn Nam Giao vẫn còn đó. Việc trồng cây đàn Nam Giao vẫn duy trì dành cho các bậc lãnh đạo quốc gia và quốc khách. Có thể vận dụng việc trồng cây ở Cố đô Huế dành cho bá tánh người yêu Huế, người Huế đi xa về thăm Huế, người VN, người nước ngoài muốn lưu lại Huế một kỷ niệm bằng một cây xanh.
Hội NC&PT Di sản văn hóa Huế đề nghị Công-ty Công trình Công cộng của Thành phố chon quy hoạch một khu đồi (Ví dụ như khu vực lăng Hoàng tử Cảnh, Kiên Thái Vương, lăng Đồng Khánh) làm VƯỜN THÂN NHÂN, đánh số trên bản đồ. Bên cạnh lập vườn thông con. Khách hàng có thể chọn mua một hay nhiều số + cây và thuê người giữ vườn của Công-ty trồng hộ. Mỗi cây có bảng tên quê quán của người quá cố, người còn sống nhưng ở xa và ngay cả người đang sống muốn lưu lại Huế một kỷ niệm. Thực hiện việc phát triển nầy có những lợi ích sau:
- Khách hàng có một gắn bó với Huế, nhớ Huế và có thể trở lại nhiều lần;
- Dân Huế có thêm công ăn việc làm: Trồng cây, chăm sóc cây, khắc bảng tên.v.v.
- Sau năm mười năm Huế có thêm một rừng thông đẹp;
- Nếu quy hoạch thiết kế hợp lý khu rừng nầy trở thành nơi sinh hoạt dã ngoại của tuổi trẻ cố đô.
Tại sao không?.

Bình luận


Chưa có bình luận!


Bài viết trước đó
Bài viết kế tiếp

Trở lại đầu trang