Hiện nay đọc trong các tác phẩm nghiên cứu, giáo trình lịch sử Việt Nam về triều người thấy ghi:
- LỊCH SỬ VIỆT NAM:
... “Các vua Nguyễn muốn thâu tóm vào tay tất cả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát... không muốn cho một ai chia sẻ quyền hành hoặc lấn át uy quyền của mình. Vì mục đích đó Gia Long đặt ra lệ “bốn không” là không đặt tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không lập hoàng hậu, không phong tước vương cho người ngoài hoàng tộc (mà đối với người trong hoàng tộc cũng chỉ phong tước danh dự mà thôi).” (Tập I. Ủy ban KHXH VN - NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1971 - tr. 370)
- VIỆT NAM THẾ KỶ XIX:
... “Nhằm tập trung quyền lực và đề phòng mọi sự lấn át quyền của nhà vua, Gia Long đặt ra lệ “bốn không” (tứ bất): trong triều không đặt chức tể tướng, thi đình không lấy trạng nguyên, trong cung không lập hoàng hậu, không phong tước vương cho người khác.” (Giáo sư sử học Nguyễn Phan Quang – NXB. Tổng hợp thành phố HCM, 1999, tr. 14).
- TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM:
... “Sợ quyền thần lấn át hoàng đế, từ thời Gia Long, nhà Nguyễn đã đặt ra lệ “tứ bất”: không đặt tể tướng, không lấy trạng nguyên, không lập hoàng hậu, và không phong tước vương...” (Nguyễn Quang Ngọc chủ biên – NXB. Giáo dục, 2004 - tr. 190).
- LỊCH SỬ VIỆT NAM:
... “Để đảm bảo uy quyền tuyệt đối cho nhà vua và dòng họ cai trị, Gia Long cho đặt lệ “tứ bất” (không đặt tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy trạng nguyên và không phong tước vương cho người ngoài hoàng tộc)” (Tiến sĩ Sử học Huỳnh Công Bá, Giảng viên khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm Huế - NXB. Thuận Hóa, 2004, tr. 228).
Trên đây tôi chỉ chọn những tác phẩm chính thống có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội, là tài liệu tham khảo quan trọng đối với giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Vậy vấn đề “tam bất khả” hay “tứ bất lập” có hay không, đặc biệt là dưới triều Gia Long vị vua khai sáng triều Nguyễn?
Căn cứ vào tài liệu của triều Nguyễn còn lưu lại, chúng ta biết chính xác các sự việc sau:
- HOÀNG HẬU
Vua Gia Long (1802 - 1819) sau khi thống nhất đất nước đến mùa hè năm Bính Dần (1806) mới chính thức cử hành lễ lên ngôi hoàng đế tại điện Thái Hòa. Tiếp đến vua làm lễ truy tôn huy hiệu cho tổ tiên (các đời chúa Nguyễn). Mùa thu tấn tôn mẹ (Nguyễn Thị Hoàn) lên ngôi hoàng thái hậu và sách lập vợ chính là Tống Thị Lan làm hoàng hậu. Sách văn viết: “... Nay trẫm mới theo lời tâu xin của đình thần đã lên ngôi đế, nghĩ ngôi hậu ở trong cùng trị với trẫm, chức việc trong cung, cũng gốc ở triều đình, nên trẫm đã tâu xin ý chỉ của hoàng thái hậu, đặc biệt sai chưởng Thần võ quân kiêm giám Thần sách quân Khiêm quận công Phạm Văn Nhơn cầm cờ tiết. Hộ bộ Thượng thư Tích thiện hầu Nguyễn Kỳ Kế làm phó, đem sách vàng, ấn vàng tấn phong làm hoàng hậu để tôn vị hiệu. Hậu nên nhận lấy danh hiệu vẻ vang này, gắng sức sửa sang việc nhà, kính thờ tôn miếu, tỏ khuôn phép làm mẹ thần dân. Siêng năng việc đức, hằng nhớ nghĩa mà sáng tươi, để hưởng phúc lành mãi mãi không cùng”.
Năm 1814, hoàng hậu mất, vua Gia Long vô cùng thương tiếc, ban thụy hiệu: GIẢN CUNG TỀ HIẾU DỰC CHÍNH THUẬN NGUYÊN HOÀNG HẬU. Vua Minh Mạng truy tôn: Thừa Thiên Tá thánh Hậu đức, Từ nhân, Giản cung Tề hiếu Dực chính Thuận Nguyên Cao hoàng hậu (đời sau thường gọi tắt là Thừa Thiên Cao hoàng hậu).
Trường hợp bà Trần Thị Đang (sinh mẫu của vua Minh Mạng) dưới triều Gia Long không được sách lập làm hoàng hậu. Năm 1841, vua Thiệu Trị tôn bà làm Nhân Tuyên Từ Khánh Thái hoàng Thái hậu. Năm 1846 bà mất, vua và triều thần tôn thụy hiệu là: Thuận Thiên, Hưng thánh, Quang dũ, Hóa cơ, Nhân tuyên, Từ Khánh, Đức Trạch, Nguyên Công Cao hoàng hậu (thường gọi tắt là Thuận Thiên Cao hoàng hậu).
Tại sao vua Minh Mạng (1820 - 1840) không lập hoàng hậu?
Năm 1806, tuân theo ý chỉ của vua cha hoàng tử Nguyễn Phước Đảm (NPĐ) cưới con gái công thần Hồ Văn Bôi là Hồ Thị Hoa làm vợ. Năm 1807, bà Hoa sinh con trai đầu lòng là Miên Tông được 13 ngày thì bà mất. Năm 1820, hoàng thái tử Đảm lên nối ngôi lấy niên hiệu Minh Mạng. Năm 1836, định thứ bậc cung giai (xếp hạng các bà vợ vua) bà Hoa được truy tặng “Nhất giai Thuận đức Thần phi”. Vua có dụ “... Nhân nghĩ: đức hóa trong cung nêu thói thuần nhã, đường lối nghi lễ nổi vẻ đáng tin. Ngôi chủ quỹ (vợ cả) trong cung còn trống để đợi bậc có đức hiền mà chính sự và nghi lễ trong cung cũng nên phân biệt thứ bậc để tỏ rõ trật tự. Bấy nay tuy có vị hiệu nhưng cấp bậc chưa được rõ rệt lắm. Nay đặc cách châm chước xưa nay, đặt ra các chức nội quan gồm có cửu giai (9 bậc vợ). Trên nhất giai, đặt một hoàng quý phi để giúp hoàng hậu là ngôi chủ quỹ trong cung, giữ nội chính cho được tề chỉnh...”
Đó là giải thích của vua Minh Mạng đối với thần dân, sở dĩ trong cung chưa lập hoàng hậu vì đợi “bậc có hiền đức”. Nhưng theo tôi sở dĩ vua không lập vì sợ gây ra khó khăn khi quyết định chọn người nối ngôi về sau. Bởi vì:
- Nếu lập hoàng hậu thì con trai của hoàng hậu ưu tiên được thừa kế ngai vàng.
- Trong khi hoàng trưởng tử Miên Tông con của Thuận Đức thần phi Hồ Thị Hoa được bà nội đem vào cung nuôi dưỡng từ lúc mới lọt lòng mẹ 13 ngày, nay khôn lớn học hạnh đều tốt. Nếu vua Minh Mạng không chọn con của hoàng hậu mà quyết định cho Miên Tông nối nghiệp thì sau này có nguy cơ phân hóa nội bộ hoàng gia và triều đình, rất nguy hiểm.
Các vị vua Nguyễn kế tiếp không lập hoàng hậu, chỉ có hoàng quý phi là bậc cao nhất trong nội cung đều có lý do riêng chính đáng. Nhưng đến Bảo Đại (1926 - 1945) vị vua cuối cùng triều Nguyễn, sau lễ thành hôn với bà Nguyễn Hữu Thị Lan đã tấn phong ngay làm hoàng hậu Nam Phương.
Như vậy việc lập hoàng hậu hay không tùy theo hoàn cảnh đề nghị, nội tình hoàng gia để vua suy nghĩ lựa chọn quyết định.
Hình ảnh của Hoàng hậu Nam Phương
- TỂ TƯỚNG
Chỉ vị quan cao cấp đứng đầu triều đình giúp đỡ vua quản lý việc nước, tên gọi thay đổi qua các triều đại ở Trung Quốc, Việt Nam. (Đời Lý gọi là Phụ quốc thái úy; đời Trần đặt Tả Hữu tướng quốc; đời Lê gọi là Kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự Thừa tướng, Thượng tể...).
Đời Gia Long, sau thời gian dài đất nước bị chia cắt loạn lạc, để thuận tiện việc quản trị hành chánh vua cho lập Bắc thành (gồm các địa phương từ Ninh Bình trở ra Bắc) và Gia Định thành (từ Biên Hòa trở vào Nam). Nhà vua chọn lựa các vị khai quốc công thần hàng đầu bổ nhiệm vào chức vụ Tổng trấn, đứng đầu mỗi thành. Tổng trấn có quyền hạn rất lớn để quyết định mọi việc binh, dân có thể xem như hai vị Tả, Hữu tướng quốc (hoặc phó vương). Đến triều Minh Mạng, vua cải cách hành chánh bãi bỏ cấp “thành” và chức vụ Tổng trấn. Toàn quốc chia làm 30 tỉnh, trực thuộc triều đình trung ương. Đứng đầu triều đình có “tứ trụ đại thần” (Cần chánh, Văn minh, Võ hiển, Đông các đại học sĩ) phụ tá nhà vua. Tránh tình trạng quyền hành tập trung vào tay một người (tể tướng) hay hai người (Tả - Hữu tướng quốc) dễ phát sinh họa thao túng, chuyên quyền như các triều đại trước.
- TRẠNG NGUYÊN
Suốt thời Gia Long chỉ tổ chức được 3 khoa thi Hương. Sở dĩ chưa tổ chức thi Hội vì nước nhà mới thống nhất sau thời gian dài bị phân ly, việc học hành giữa hai miền Nam - Bắc khác nhau. Chính quyền đang đặt trong tình trạng “quân quản”, đứng đầu guồng máy cai trị từ địa phương đến trung ương hầu hết là võ quan cao cấp. Số Tiến sĩ đào tạo từ thời Lê còn nhiều, đa số chịu ra hợp tác với Gia Long, chưa có nhu cầu tuyển thêm Tiến sĩ. Như vậy triều Gia Long chưa tổ chức thi Hội, thi Đình làm sao có Trạng nguyên?
Đến thời Minh Mạng, năm 1822 lần đầu tiên tổ chức thi Hội, thi Đình. Sau đó vua Minh Mạng quy định phân thứ hạng nhất giáp, nhị giáp, tam giáp theo điểm số rõ ràng.
* Đệ I giáp:
- 10 điểm: đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ
Đệ nhất danh (Trạng nguyên)
- 9 điểm: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ
Đệ nhị danh (Bảng nhãn)
- 8 điểm: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ
Đệ tam danh (Thám hoa)
* Đệ II giáp:
- 6 đến 7 điểm: Đệ nhị giáp Tiến sĩ
Xuất thân (Hoàng giáp)
* Đệ III giáp:
- 4 đến 5 điểm: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ
Xuất thân (Tiến sĩ)
Từ năm 1822 đến năm 1919, triều Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi Hội, thi Đình lấy đỗ 280 Tiến sĩ, trong số đó có 8 người đỗ đệ I giáp. Rất tiếc không ai đạt đủ 10 điểm để chiếm học vị “Trạng nguyên”. Người đỗ cao nhất là “Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh Phạm Thanh (Trương Xá - Thanh Hóa) tức Bảng Nhãn, khoa Tân Hợi triều Tự Đức (1851).
- TƯỚC VƯƠNG
Các vua triều Nguyễn rất hạn chế việc phong tước trong hoàng gia. Thông thường các hoàng tử, hoàng thân đủ 15 tuổi được xét phong tước Công. Nếu học vấn, hạnh kiểm không đạt tiêu chuẩn thì 5 năm sau mới được xét duyệt lại.
Tước vương chỉ phong cho các hoàng thân lớn tuổi có học thức, đạo đức cao trọng nổi tiếng như Thọ Xuân Vương Miên Định, Tuy Lý Vương Miên Trinh... Điều này nhằm khuyến khích các thành viên trong hoàng tộc phải nỗ lực học tập, tu dưỡng đạo đức. Đối với người ngoài hoàng tộc, chỉ dùng 5 tước “Công - Hầu - Bá - Tử - Nam” để phong tặng khi lập được công nghiệp to lớn. Dưới triều Gia Long rất nhiều võ quan có chiến công được phong tước quận công (Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức...) Các quan văn phần nhiều chỉ được phong tước Hầu, rất ít người được phong tước Công.
Đối chiếu sử sách hiện nay với các sự việc được ghi chép rõ ràng trong sử sách thời Nguyễn chúng tôi thấy vấn đề “tam bất khả” hay “tứ bất lập” được gán cho vua Gia Long bày đặt ra để nhằm “thâu tóm vào tay tất cả quyền hành” hay “để đảm bảo uy quyền tuyệt đối cho nhà vua và dòng họ cai trị” không có cơ sở. Hy vọng những điểm sai lầm sẽ được cải chính trong các tác phẩm, công trình biên soạn lịch sử càng sớm càng tốt.
Tham khảo:
- Đại Nam Thực Lục chánh biên đệ I, đệ II kỷ (NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1967).
- Đại Nam liệt truyện (NXB Thuận Hóa - Huế 1993).
- Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa - Huế 2000)
- Đại Nam điển lệ toát yếu (Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác - NXB Tp. Hồ Chí Minh - 1993).