Sau
ngày thống nhất đất nước 1975), đang làm công tác tuyên giáo ở Thành ủy Huế, do một cái duyên, tôi thực hiện công trình Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Muốn nghiên cứu về Thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế tôi phải biết triều Nguyễn và Huế xưa – nơi thời Bác đã sống qua. Tôi vô tình bước một thế giới mênh mông, đa chiều, cực kỳ phức tạp. Từ một người cầm bút xuất thân kháng chiến, lao vào nghiên cứu (nghiệp dư), tất cả đêu phải đi lại từ đầu. Ngoài chuyên đề về thời niên thiếu của Bác Hồ tôi đầu tư nghiên cứu ba ông vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Cuộc đời ba vua cuối Triều Nguyễn ai cũng biết. Điều mà lịch sử muốn biết là nửa đời sau của ba vua ở chốn lưu đày. Về hai vua Thành Thái Duy Tân tôi may mắn được thân quen với Công chúa Lương Linh (Mệ Sen) con gái vua Thành Thái từ trong Phong trào đấu tranh đô thị (1963-19750 và sau đó gặp gõ các hoàng tử con vua Thành Thái như Vĩnh Giu, Vĩnh Cầu, Vĩnh Giêu (ở Hoa Kỳ), được gặp và phỏng vấn bà Fernande Antier (bà vợ đầm của Duy Tân), gặp và hỏi chuyện các hoàng tử Georges Vinh San, Claude Vĩnh Sa , Roger Vĩnh San con vua Duy Tân, Đối với vua Hàm Nghi thì rất khó khăn vì không tìm được người thân của ông. Bất ngờ, vào khoảng đầu năm 1998, ông Daniel Grandclément từ Paris về Huế sưu tập tư liệu cho cuốn sách Bảo Đại và những ngày cuối cùng của Vương triều An Nam. Khi nói chuyện về Hoàng hậu Nam Phương ông Daniel cho biết lăng mộ Hoàng hậu ở Chabrignac/Corrèze gần nhà của Công chúa Như Lý con gái vua Hàm Nghi. Trời ơi ! Ông khách Daniel đã vô tình cung cấp cho tôi hai thông tin quý. Làng mộ HH Nam Phương và nơi ở của Công chúa Như Lý con gái vua Hàm Nghi.
Tôi mắc cái bệnh “Đã nhúng tay vào nghiên cứu việc gì là phải đi đến cùng”. Tôi phải đi Pháp tìm gặp Công chúa Như Lý và viếng mộ Hoàng hậu Nam Phương để hỏi chuyện vua Hàm Nghi. Tháng 7 năm 1998, tôi về hưu, rời khỏi Văn phòng Đại diện Miền Trung báo Lao Động, đầu năm 1999 tôi đi Pháp.
Nhờ sự giúp đỡ của bà Mộng Điệp và Hội Người Yêu Huế tại Pháp giúp, người hướng dẫn cho tôi đi gặp Công chúa Như Lý là dược sĩ Nguyễn Duy Thản. Dược sĩ Thản chưa bao giờ nghe nói đến Công chúa Như Lý nhưng ông giúp hướng dẫn cho tôi vì ông nghĩ: Công chúa Như Lý là một quý tộc, mà bà xã ông là một quý tộc Pháp nên bà có thể nhờ dân quý tộc Pháp ở Corrèze tìm hộ Công chúa Như Lý cho tôi. Đây là một chuyến “điền dã” lịch sử nên tôi còn nhờ ông Huỳnh Văn Tươi - thư ký của GS Trần Văn Khê ở Paris cùng đi để giúp quay phim.
Sáng 24-1-1999, chúng tôi ra ga Austerlitz (Paris) đi tàu lửa về ga Uzerche - thị trấn của quận Tulle (tỉnh lỵ của Corrèze), cách phía tây nam Paris trên 450 km. Ông bà Corbier - một gia đình quý tộc thân thuộc của bà xã ông Thản ở Corrèze đưa ô-tô ra ga đón chúng tôi về lâu đài Saint Martin Sépert cách ga chừng nửa giờ ô-tô. Trong lúc chờ ăn trưa, ông Corbier điện thoại cho dân quý tộc trong vùng tìm hộ địa chỉ Công chúa Như Lý nhưng không ai biết Công chúa Như Lý là ai cả. May ra hỏi làng Chabrignac ở đâu. Nhờ cái địa danh Chabrignac mà ông Corbier liên lạc được với Comptesse de la Besse tức Công chúa Như Lý và xin Công chúa cho phép một nhà nghiên cứu sử ở Huế/VN sang xin được đến thăm bà. Bà đồng ý. Nhưng loay hoay lạc đường cả buổi chiều. Mãi đến gần tối mới đến lâu đài De la Nauche của Công chúa Như Lý.
H.1.Trước lâu đài De la Nauche của Công chúa Như Lý
Xe vừa vào đến sân đã thấy đèn trong lâu đài bật sáng. Tôi vừa mở cửa bước xuống xe thì có một người đàn ông trạc tuổi tôi và một phụ nữ mặc áo len màu nghệ ra đón đưa chúng tôi vào lâu đài. Một bà già cao ráo nghiêm nghị mặc đầm, bên ngoài khoát một chiếc áo len cùng một màu đà nhạt ngồi ở bộ bàn ghế cổ đứng dậy đưa tay cho chúng tôi bắt và trách chúng tôi:
- “Tại sao đến trễ vậy ?”.
Chưa nghe giới thiệu tôi cũng đoán biết đó là Công chúa Như Lý. Chúng tôi giải thích là đi lạc đường và xin lỗi bà. Tôi hết sức xúc động. Bà Công chúa Như Lý là cái gạch nối giữa thời Cần Vương với thế hệ chúng tôi.
Sau khi bà nghe giới thiệu tôi là nhà sử học từ Huế sang, Bà nói:
- “Từ khi vua Hàm Nghi đặt chân lên cảng Alger tháng 1-1889, cho đến nay (1-1999) vừa tròn 110 năm. Các ông là những người Việt Nam đầu tiên từ bên nước sang đến nhà người thân của vua Hàm Nghi. Trước đây ông Trần Văn Chương làm đại sứ ở Alger có đến thăm chúng tôi một lần nhưng ông ấy đến thăm với tư cách là cháu rễ đến thăm gia đình cậu [1] chứ không phải là nhà sử học đến thăm con gái vua Hàm Nghi.”
Chúng tôi được Công chúa Như Lý tiếp trong phòng khách rộng với vô vàn đồ cổ phương Đông và phương Tây. Cùng tiếp với Bà có vợ chồng cô Anne Dabat - con gái út của bà - những người đầu tiên đã ra đón chúng tôi ở sân lâu đài. Bà cho biết thêm:
-“Có vợ chồng Philippe - con trai của tôi cùng đến đón các ông nhưng chờ lâu quá, nhà họ ở chỗ khác nên cáo lỗi. Rất tiếc không gặp được các ông”.
Công chúa Như Lý năm ấy (1999) đã 91 tuổi nhưng vẫn còn khoẻ mạnh. Bà không biết tiếng Việt, không có dịp tiếp xúc với người Việt Nam nên bà rất thiếu thông tin về Việt Nam. Những thông tin bà biết đều đã quá cũ và hoàn toàn không làm cho bà yên tâm. Bà hỏi:
- “Ông là nhà sử học ở Huế, ông cho tôi biết những người con của cụ Tôn Thất Thuyết đã bảo vệ vua Hàm Nghi như thế nào?”.
Tôi trình bày với bà về sự hy sinh cho đại nghĩa của ông Tôn Thất Tiệp và Tôn Thất Đàm.
Bà lại hỏi :
- “Mấy người Pháp đi du lịch Việt Nam về cho tôi xem ảnh một cái bàn thờ có ảnh vua Hàm Nghi ở lăng Minh Mạng. Tại sao người ta đem ảnh cha tôi thờ ở lăng Minh Mạng?”.
Tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi giải thích với bà:
- “Cháu cũng là hướng dẫn du lịch thường lên thăm lăng vua Minh Mạng, nhưng chưa bao giờ thấy ở đó có thờ ảnh vua Hàm Nghi cả.
Nghe tôi nói cương quyết như thế bà hơi nghi ngờ tôi. Bà nhắc lại:
- “Chính mắt tôi thấy mấy chiếc ảnh ấy. Trước tấm ảnh có nhiều hoa. Mắt tôi nhìn không nhầm, tai tôi nghe rõ những gì các người Pháp đi du lịch Việt Nam về kể lại!”.
Tôi đâm ra nghi ngờ chính tôi. Để khỏi mất thiện cảm của bà, tôi và các bạn cùng đi nói qua chuyện khác. Tuy thế, tôi vẫn ám ảnh trước thái độ khó chịu của Bà. Một tiếng đồng hồ sau tôi sực nhớ ra một điều gì đó. Tôi nhoài người đến phía bà để mượn cuốn sách Huế Thành phố vương giả Việt Nam (Hué Cité Impériale du Viet Nam) của ông bà Anne Hélen và Walter Unger để dưới tay bà. Tôi hy vọng trong sách này có ảnh nội thất Thế Miếu. Quả nhiên ở trang 98 có chiếc ảnh mà tôi hy vọng. Tôi trân trọng đặt trang ảnh trước mặt bà và hỏi:
H.2. Đây là ảnh Thế Miếu chứ không phải lăng Minh Mạng.
- “Thưa bà, chiếc ảnh mấy người bạn Pháp đưa cho bà xem có giống chiếc ảnh chụp dãy bàn thờ này không?“.
Bà nhìn kỹ rồi đáp:
- “Giống như thế!”.
Tôi mừng quá:
- “Kính bà, đây là ảnh nội thất Thế Miếu do vua Minh Mạng xây dựng vào năm 1821, để thờ các vua nhà Nguyễn. Trong dãy bàn thờ này có áng thờ vua Hàm Nghi và trên áng thờ có ảnh hoàng phụ của bà! Thế Miếu do vua Minh Mạng xây dựng chứ không phải lăng Minh Mạng”.
Nhìn kỹ tấm ảnh và nhớ lại, bà vui mừng bảo tôi:
- “Đúng rồi. Ông là nhà sử học Huế, tôi tin ông”.